1.Nguyên liệu thức ăn chăn nuôi thường dùng cho gà thịt
Nguyên liệu dùng cho chế biến thức ăn chăn nuôi có nhiều loại, mỗi loại có một đặc tính riêng; tuy nhiên, chủ yếu được chia thành các loại chính sau đây:
1.1. Thức ăn giàu năng lượng
Thức ăn giàu năng lượng là các loại thức ăn có hàm lượng carbonhydrate và chất béo phong phú, hàm lượng xơ thô dưới 18%, hàm lượng protein thô dưới 20% tính theo khối lượng vật chất khô; chủ yếu bao gồm các loại hạt ngũ cốc, cám trấu, rễ củ, thân củ, mật đường, một số loại dầu thực vật và mỡ động vật…Đây là thành phần chính trong thức ăn chăn nuôi, chiếm khoảng 60% khẩu phần ăn hằng ngày của gà.
a) Ngô:
Ngô có hàm lượng năng lượng cao (14,06 Mj/kg); ít xơ (hàm lượng chất xơ chiếm khoảng 2%); chứa nhiều axit linoleic (2%); hàm lượng chất béo chiếm khoảng 3.5 – 4.5%, protein là 8.6% tuy nhiên lượng lysine và tryptophan tương đối thấp. Ngô giàu tinh bột, ngon miệng, giá thành hợp lý, là thực phẩm cung cấp năng lượng chủ yếu, chiếm khoảng 50-70% lượng thức ăn chăn nuôi. Ngô có 2 loại: ngô vàng và ngô trắng; ngô vàng chứa nhiều caroten giúp da gà có màu hấp dẫn hơn. Hiện nay có nhiều giống ngô được gây trồng phục vụ cho mục đích chăn nuôi như ngô giàu protein, lysine, phytase với giá trị dinh dưỡng cao, cho hiệu quả chăn nuôi tốt hơn so với các giống truyền thống.
b) Lúa mì (tiểu mạch):
Năng lượng trao đổi chứa trong lúa mì là 12,97Mj/kg, hàm lượng protein tương đối cao (chiếm 12,1%). Lúa mì giàu vitamin nhóm B và cung cấp lượng axit amin đầy đủ hơn so với các loại ngũ cốc khác. Tuy nhiên, không nên sử dụng lúa mì làm thức ăn trực tiếp có hàm lượng đường đa không tinh bột tương đối cao, cho ăn quá nhiều sẽ gây khó tiêu, ảnh hưởng đến sinh trưởng của gà. Lượng lúa mì trộn thêm vào thức ăn của gà sau khi đã bổ sung B – glucanase và xylanase ở mức 30% là hợp lý.
c) Đại mạch và yến mạch:
Năng lượng trong 2 loại ngũ cốc này thấp hơn so với ngô và lúa mì, tuy nhiên hàm lượng protein và các vitamin nhóm B khá phong phú. Do có vỏ cứng và hàm lượng xơ thô tương đối cao nên trong khẩu phần ăn của gà nên hạn chế phối trộn 2 loại hạt này.
d) Cám mì:
Bao gồm cám lúa mì và cám đại mạch. Lượng năng lượng chứa trong cám mì khá thấp, tuy nhiên hàm lượng protein lại tương đối cao (11 – 17%). Cám mì giàu vitamin nhóm B; tỷ lệ các thành phần tương đối cân bằng; ngon miệng; là thức ăn chăn nuôi thường dùng cho gà. Tuy nhiên không nên dùng quá nhiều do cám mì có hàm lượng xơ thô cao, dễ gây tiêu chảy.
e) Thức ăn chứa dầu mỡ:
Thức ăn chứa dầu mỡ bao gồm các loại dầu như dầu đậu nành, dầu bắp, dầu hạt cải, dầu cọ…và các nguyên liệu chế biến thức ăn có chứa hàm lượng chất béo cao như đậu nành ép đùn, lecithin tinh chiết từ đậu nành…Loại thức ăn này có hàm lượng dầu mỡ cao, có thể cung cấp lượng năng lượng gấp 2,25 lần so với carbon hydrate và protein. Bổ sung 1 lượng nhỏ thực phẩm chứa nhiều dầu mỡ vào thức ăn chăn nuôi bình thường không chỉ nâng cao khả năng dẫn truyền các vitamin tan trong chất béo mà còn có thể làm tăng nồng độ năng lượng cung cấp. Tỷ lệ dầu mỡ thêm vào thức ăn dao động trong khoảng 3-5% có tác dụng giúp gà tăng trọng nhanh, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho gà giống vào mùa hè; tránh tình trạng thân nhiệt làm ảnh hưởng tiêu hóa. Ngoài ra có thể thêm Lecithin chiết xuất từ đậu nành vào khẩu phần hàng ngày của gà. Lecithin tinh chiết từ đậu nành ngoài tác dụng làm tăng hàm lượng các chất sinh năng lượng còn có thể bảo vệ gan, đảm bảo chức năng giải độc của gan; nâng cao khả năng miễn dịch của cơ thể và tính hoàn chỉnh của niêm mạc đường hô hấp, tăng sức đề kháng, đảm bảo chức năng sinh sản của gà. Tuy nhiên, cần chú ý khi bổ sung chất béo cũng phải tăng đồng thời hàm lượng các chất dinh dưỡng khác.
1.2. Thúc ăn giàu protein
Là những loại thức ăn có hàm lượng protein thô trong thức ăn trên 20%, hàm lượng xơ thô dưới 18% tính theo khối lượng vật chất khô. Thức ăn giàu protein chiếm 10-30% khẩu phần ăn hàng ngày, bao gồm thức ăn giàu protein có nguồn gốc thực vật.
a) khô dầu/bã đậu nành:
Do phương pháp ép dầu khác nhau mà sản phẩm phụ sau quá trình ép dầu từ đậu nành được chia thành khô đậu và bã đậu. Với các đặc điểm như: hàm lượng protein chiếm từ 40-50%, giàu lysine, ngon miệng, khô đậu và bã đậu đã qua chế biến là thực phẩm cung cấp protein có nguồn gốc thực vật tốt nhất cho gà. Lượng khô đậu (bã đậu) dùng trong khẩu phần ăn của gà thường chiếm tỷ lệ từ 15-25%. Do có hàm lượng Methionine tương đối thấp, loại nguyên liệu này mang lại hiệu quả chăn nuôi cao hơn so với các loại khô dầu và bã khác. Hiệu suất sử dụng axit amin và protein dễ bị ảnh hưởng bởi các nhân tố nhiệt độ và kỹ thuật trong quá trình gia công, chế biến; do đó nhiệt độ không đủ cao hoặc quá cao đều có thể làm giảm hiệu quả hấp thu và sử dụng protein. Ngoài ra, nếu nhiệt độ sử dụng trong quá trình ép đầu không phù hợp, một số chất phản dinh dưỡng chứa trong đậu nành tươi tồn đọng lại ở khô đậu cũng có thể gây ảnh hưởng đến hiệu suất sử dụng protein.
b) Khô dầu/bã lạc:
Tỷ lệ protein thô trong khô dầu lạc vào khoảng 42-48%; cao hơn so với khô đậu nành, giàu arginine và histidine; hàm lượng lisine thấp; ngon miệng hơn và cho hiệu quả tốt hơn so với khô đậu nành. Khô lạc có lượng năng lượng trao đổi là 52,47 Mj/kg, ít canxi, giàu photpho, tuy nhiên các axit amin không cân bằng, hàm lượng chất béo cao. Tích trữ khô lạc trong thời gian dài sẽ tạo điều kiện phát triển cho nấm ASpergillus flavus dẫn đến nhiễm độc Aflatoxin (AFT), gây hại nghiêm trọng đến cơ thể gà. Lượng khô lạc sử dụng trong khẩu phần ăn hàng ngày thường không vượt quá 10%.
c) Khô dầu hạt bông:
Sản phẩm phụ của quá trình ép dầu hạt bông nguyên vỏ được gọi là khô dầu hạt bông và ép dầu hạt bông đã qua bỏ vỏ được gọi là khô nhân hạt bông; hàm lượng protein thô chứa trong 2 loại thức ăn này có tỷ lệ lần lượt là 17-28% và 39-40%. Trong hạt bông có 2 chất là gossypol và acid béo cyclopropene là những chất có hại cho cơ thể vật nuôi, vì vậy trước khi cho ăn cần chú ý tiến hành khử độc, lượng khô hạt bông chưa qua khử độc được phép thêm vào thức ăn không nên vượt quá 3-5%.
d) Khô dầu hạt cải:
Tỷ lệ Protein thô chứa trong khô dầu hạt cải là 35 – 40%, lượng lysine thấp hơn 50% và lượng axit amin chứa lưu huỳnh cao hơn 14% so với bã đậu nành, hàm lượng xơ thô chiếm 12%, hiệu suất tiêu hóa các chất hữu cơ là 70%; do đó khô dầu hạt cải có thể thay thế một phần khô đậu nành để làm thức ăn chăn nuôi cho gà. Tuy nhiên, do trong khô dầu hạt cải có độc tố Myrosinase nên cần tiến hành khử độc trước khi cho gà ăn. Trong quá trình chăn nuôi cần hạn chế tối đa việc sử dụng khô dầu hạt cải chưa qua xử lý khử độc, chỉ được phép dùng với 1 lượng không quá 5%.
e) Khô dầu vừng:
khô dầu vừng là sản phẩm phụ của quá trình sản xuất dầu vừng; có hàm lượng protein thô chiếm khoảng 40%, giàu methionine, thường được kết hợp với khô đậu nành làm thức ăn chăn nuôi cho gà, có tác dụng làm tăng lượng thức ăn. Khô dầu vừng chứa nhiều chất béo, không bảo quản được lâu nên khi mua về phải nghiền nát và cho gà ăn ngay.
f) Khô dầu hướng dương:
Khô dầu hướng dương có 2 loại: khô dầu đã qua bỏ vỏ và khô dầu chưa qua bỏ vỏ. Khô dầu hướng dương đã qua bỏ vỏ chất lượng cao hàm lượng protein thô chiếm trên 40%, hàm lượng chất béo thô dưới 5% và xơ thô dưới 10%; giàu vitamin nhóm B, có thể thay thế 1 phần cho khô đậu nành để làm thức ăn chăn nuôi gà. Lượng khô dầu hướng dương sử dụng trong chế biến thức ăn chiếm khoảng 10-20%. Khô dầu hướng dương chưa qua bỏ vỏ không thích hợp làm thức ăn cho gà.
g) Bột cá:
Bột cá là thực phẩm cung cấp protein tốt nhất cho gà thịt, có hàm lượng protein dao động từ 45-60%, hàm lượng axit amin cao, kết cấu dinh dưỡng hợp lý. Bột cá giàu vitamin A và các vitamin nhóm B, đặc biệt là vitamin B12; chứa nhiều sắt, canxi, photpho và một số chất khác có tác dụng kích thích sinh trưởng ở gà. Sử dụng bột cá để bổ sung các axit amin giới hạn bị thiếu hụt trong thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc thực vật cũng mang lại hiệu quả tương đối khả quan. Tuy nhiên, bột cá chứa nhiều chất béo nên rất dễ ôi thiu; ngoài ra hàm lượng histamine cao trong bột cá có thể gây ra chứng xói mòn mề (hay còn gọi là chứng nôn đen) ở gà. Bột cá có giá thành cao, hiện tượng pha trộn, làm giả, làm nhái tương đối nhiều; vì vậy khi mua cần chú ý phân biệt, kiểm tra chất lượng và tiến hành phân chất kỹ lưỡng. Lượng bột cá sử dụng trong khẩu phần ăn ở mức 5-15% là hợp lý.
h) Bột máu và bột thịt xương:
Là phụ phẩm từ các nhà máy giết mổ, chế biến gia cầm, gia súc và phần thịt bỏ đi của vật nuôi bị bệnh được xử lý bằng nhiệt độ cao. Bột thịt xương và bột máu là nguồn cung cấp protein hấp dẫn cho gà, chứa hàm lượng protein thô lên đến trên 80%, hàm lượng axit amin dao động từ 6-7%, tuy nhiên tương đối nghèo methionine và isoleucine. Bột máu kém ngon miệng, sử dụng quá nhiều dễ dẫn đến tiêu chảy, do đó chỉ chiếm tỷ lệ từ 1-3% trong khẩu phần ăn. Bột thịt xương chứa hàm lượng protein thô trên 40%; hiệu suất tiêu hóa protein lên đến 80%; chứa nhiều lysine tuy nhiên hàm lượng methionine và tryptophan khá thấp; giàu canxi, photpho và tỉ lệ giữa canxi, photpho tương đối hợp lý. Bột thịt xương chứa nhiều chất béo, dễ biến chất, không bảo quản được lâu do đó chỉ chiếm khoảng 5% trong khẩu phần ăn của gà.
i) Bột nhộng tằm:
Bột nhộng tằm có hàm lượng protein thô vào khoảng 68%, chất lượng protein tốt chứa nhiều axit amin giới hạn là 1 trong những nguồn cung cấp protein lý tưởng cho gà. Tuy nhiên, bột nhộng tằm chứa nhiều chất béo do đó cũng không thể bảo quản, tích trữ được lâu.
k) Bột lông vũ:
Bột lông vũ thủy phân chứa hàm lượng protein thô đạt gần 80% nhưng lại nghèo methionine, lysine, tryptophan và histidine, do đó khi sử dụng cần chú ý đến vấn đề cân bằng các axit amin và nên sử dụng kèm với các loại thức ăn khác có nguồn gốc động vật. Bổ sung bột lông vũ vào thức ăn chăn nuôi cho gà có tác dụng phòng ngừa và giảm thiểu hiện tượng gà cắn mổ lẫn nhau. Lượng bột lông vũ sử dụng trong khẩu phần ăn thường dao động từ 1-3%.
1.3. Thức ăn giàu chất khoáng
Thức ăn giàu chất khoáng là loại thực phẩm sử dụng vào mục đích bổ sung lượng nguyên tố khoáng thiếu hụt trong các loại thức ăn có nguồn gốc từ thực vật hoặc động vật. Hầu hết các loại thực phẩm đều chứa 1 lượng khoáng chất nhất định; trong điều kiện nuôi thả, sản lượng thấp, hiện tượng thiếu khoáng không rõ rệt; tuy nhiên trong điều kiện nuôi nhốt, với yêu cầu năng suất và sản lượng cao thì nhu cầu về khoáng chất của gà cao hơn do đó việc bổ sung thêm khoáng chất vào thức ăn chăn nuôi cho gà là rất cần thiết.
a) Thực phẩm bổ sung canxi và photpho:
- Bột xương hoặc dicanxi photphat (CaHPO4): chứa hàm lượng canxi, photpho cao và tỷ lệ giữa 2 nguyên tố tương đối phù hợp. Lượng bột xương và dicanxi phophat bổ sung vào thức ăn cho gà trong trường hợp thức ăn cung cấp thiếu photpho thường dao động trong khoảng 1,5 – 2,5%.
- Bột đá, bột vỏ sò, bột vỏ trứng: là 3 loại thực phẩm bổ sung canxi. Lượng dùng trong thức ăn cho gà thịt thường vào khoảng 1-2%, gà giống là 6-7%. Bột vỏ sò và bột đá giàu canxi, giá thành rẻ; tuy nhiên bột vỏ sò dễ hấp thu hơn bột đá. Bột vỏ trứng cũng tương đối dễ hấp thu nhưng có nguy cơ làm lây lan dịch bệnh cao.
b) Muối ăn:
Muối ăn chủ yếu dùng để bổ sung natri và clo, đảm bảo quá trình trao đổi chất của cơ thể gà, ngoài ra còn có tác dụng kích thích thèm ăn. Lượng muối sử dụng trong khẩu phần ăn của gà thường chiếm khoảng 0,25-0,3.
c) Cát sỏi:
Cát sỏi giúp gà nghiền thức ăn trong mề, đóng vai trò giống như răng. Nghiên cứu cho thấy gà không ăn cát sỏi khả năng tiêu hóa thức ăn sẽ giảm xuống 20-30%, do đó cần bổ sung cho gà các loại cát sỏi không tan trong axit clohidric (HCI), đặc biệt đối với gà nuôi nhốt.
1.4. Thức ăn giàu vitamin
Là loại thức ăn trong khẩu phần ăn của gà có tác dụng chính là cung cấp lượng vitamin cần thiết cho cơ thể bao gồm các loại rau củ, thức ăn xanh chứa nhiều nước, bột cỏ…trong đó cải trắng, cà rốt, rau dại và bột cỏ khô (bột cỏ linh lăng, bột lá hòe, bột lá thông…) là những loại thường dùng nhất. Trong điều kiện chăn nuôi quy mô lớn, việc sử dụng các loại thực phẩm cung cấp vitamin này không được thuận tiện, do đó người ta thường sử dụng chế phẩm bổ sung vitamin để thay thế.
a) Chế biến bổ sung vitamin và các nguyên tố vi lượng:
Thường được bổ sung vào thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho gà nuôi nhốt trong điều kiện tập trung, chuyên môn hóa cao. Có thể chia loại phụ gia này thành nhiều nhóm nhỏ: nhóm chuyên dụng cho gà thịt, nhóm chuyên dụng cho gà trứng, nhóm chuyên dụng cho gà giống…Khi sử dụng chế phẩm bổ sung vitamin và các nguyên tố vi lượng cần chú ý định hướng dựa theo hướng dẫn sử dụng; ngoiaf ra, gà gặp các điều kiện, hoàn cảnh bất lợi (sau khi vận chuyển; tách đàn nhập; tiêm phòng dịch; cắt mỏ…) cần được bổ sung 1 lượng nhiều hơn so với bình thường.
b) Chế phẩm bổ sung axit amin:
Hiện nay 2 loại axit amin được sản xuất công nghiệp với số lượng lớn nhiều nhất là lysine và mtthionine. Đây là loại phụ gia có tác dụng làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn chứa hàm lượng bã tạp cao. Trộn chế phẩm methionine vào thức ăn có nguồn cung protein chính là khô đậu nành có thể tiết kiệm được 1 lượng đáng kể thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc động vật; ngoài ra, trong trường hợp khô đậu nành không đủ, bổ sung chế phẩm lysine và methionine cũng có tác dụng nâng cao giá trị dinh dưỡng của protein chứa trong thức ăn.
c) Chế phẩm bổ sung kháng sinh:
Thường được sử dụng với 1 lượng nhất định nhằm mục đích ngăn ngừa các vi khuẩn gây bệnh cho gà hoặc trong trường hợp gà gặp phải những hoàn cảnh bất lợi, điều kiện vệ sinh kém. Các loại kháng sinh thường dùng bao gồm penicilin, steptomycin, chlortetracycline, oxitetracyline….
d) Chế phẩm có nguồn gốc thảo dược đông y:
Các chất kháng sinh được sử dụng trong chăn nuôi gà có thể mang đến hiệu quả nhất định nhưng lại làm nảy sinh vấn đề tồn dư trong sản phẩm; do đó nhiều loại kháng sinh đã bị cấm hoặc bị hạn chế sử dụng trong thức ăn chăn nuôi. Khắc phục được nhược điểm trên, các chế phẩm có nguồn gốc thảo dược đông y hiện nay đang dần được đưa vào sử dụng do tác dụng phụ và dư lượng trong sản phẩm ít, chứa nhiều thành phần dinh dưỡng và các hoạt chất sinh học, có đồng thời cả 2 tác dụng hỗ trợ dinh dưỡng và ngăn ngừa dịch bệnh. Với các đặc tính vượt trội như nguồn gốc tự nhiên, nhiều công dụng (đóng vai trò là hóc môn, vitamin, chất chống kích thíc, kháng khuẩn giá trị dinh dưỡng cao; giúp tăng cường khả năng miễn dịch, loại phụ gia này có tiềm năng được đưa vào sử dụng rộng rãi trong tương lai.
e) Chế phẩm bổ dung enzym:
Enzym là loại protein có công dụng đặc biệt do có thể động, thực vật tự tổng hợp. Enzym xúc tác quá trình tiêu hóa protein, chất béo và cacbonhydrat đồng thời tham gia các phản ứng sinh hóa phục vụ cho trạo đổi chất của cơ thể; do đó bổ sung thêm enzym vào thức ăn chăn nuôi có tác dụng nâng cao hiệu quả tiêu hóa và hấp thụ các chất dinh dưỡng. Các loại chế phẩm enzym sử dụng trong chăn nuôi hiện nay bao gồm chế phẩm bổ sung 1 enzym và chế phẩm bổ sung nhiều enzym. Chế phẩm bổ sung 1 enzym bao gồm amylase, lipase, protease, cellulase, phytase…Chế phẩm enzym tổng hợp là sự pha trộn của nhiều loại enzym khác loại tuy nhiên vẫn có 1 loại là thành phần chính; hoặc là sản phẩm thu được từ quá trình lên men nhiều loại vi sinh vật. Chế phẩm tổng hợp nhiều enzym có thể đồng thời phân giải nhiều chất nền (các chất phản dinh dưỡng cũng như các thành phần dinh dưỡng), nâng cao đáng kể giá trị dinh dưỡng của thức ăn. Các chế phẩm bổ sung enzym hiện nay chủ yếu là các chế phẩm tổng hợp nhiều enzym. Có thể kể đến 1 số ví dụ sau:
- Chế phẩm có thành phần chính là protease, amylase có tác dụng bổ sung lượng enzym protease, amylase vốn bị thiếu trong cơ thể.
- Chế phẩm có thành phần chính là glucanase, sử dụng để phối trộn với thức ăn có thành phần chính là đại mạch và yến mạch.
- Chế phẩm có thành phần chính là cellulase và pectase, có tác dụng phá vỡ thành tế bào thực vật, giải phóng các chất dinh dưỡng trong thức ăn, giảm độ dính của dịch tiêu hóa, từ đó đây nhanh tốc độ hấp thu dinh dưỡng cơ thể.
- Chế phẩm có thành phần chính là cellulase, protease, amylase, gluco-amylase, glucanase, pectase tổng hợp công dụng của từng loại chế phẩm nêu trên và có tác dụng hỗ trợ tiêu hóa mạnh hơn.
- Ngoài ra đối với 1 số loại thực vật có 70% photpho tồn tại dưới dạng phytate (hay còn gọi là inositol hexaphosphate – IP6) mà gà không thể hấp thu, có thể thủy phân bằng cách sử dụng phytase để giải phóng các photpho dễ tiêu; tăng khả năng hấp thu photpho dễ tiêu đồng thời phân giải 1 số chất phản dinh dưỡng, nâng cao hiệu quả chăn nuôi.
f) Chế phẩm bổ sung vi sinh vật đường ruột:
Còn được gọi là chất trợ sinh, là các chất bổ sung dinh dưỡng chứa vi khuẩn có ích; các vi khuẩn này vốn là các vi sinh vật có lợi tự nhiên tìm thấy trong đường ruột của động vật; được con người sàng lọc, nuôi cấy và sản xuất công nghiệp, quy mô lớn bằng công nghệ sinh học. Chê phẩm bổ sung lợi khuẩn bao gồm chế phẩm tổng hợp nhiều lợi khuẩn (EM, probiobic,..) và chế phẩm bổ sung 1 loại lợi khuẩn (chẳng hạn như chế phẩm lactobacillus).
Trong chăn nuôi trừ một số trường hợp đặc biệt, đa số đều dùng chế phẩm tổng hợp. Ngoài cách phối trộn thêm vào thức ăn và nước uống, các chế phẩm này còn có thể sử dụng để lên men rơm và phân gà làm thức ăn chăn nuôi nhằm nâng cao hiệu quả tiêu hóa thức ăn thô, tận dụng tối đa chế phẩm chăn nuôi và giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Chế phẩm bổ sung lợi khuẩn sau khi được đưa vào cơ thể sẽ xây dựng, phục hồi quần thể vi sinh vật và cân bằng lại hệ vi sinh vật trong đường ruột, đồng thời sản sinh ra 1 số vi khuẩn tiêu hóa, chất kháng sinh và hoạt chất sinh học từ đó nâng cao hiệu suất hấp thu và tiêu hóa thức ăn, giảm thiểu chi phí chăn nuôi, khống chế khuẩn E.coli cũng như các hại khuẩn khác, tăng cường sức đề kháng và miễn dịch tránh được tình trạng sử dụng quá nhiều các loại thuốc kháng khuẩn, cải thiện đáng kể môi trường chăn nuôi (làm giảm đến hơn 70% mùi hôi của amoniac và hydro sunfua (H2S) trong trại gà).
g) Chế phẩm bổ sung axit:
Dùng để làm tăng lượng axit trong dạ dày; kích hoạt các enzym tiêu hóa; đẩy nhanh quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng; làm giảm độ ph trong đường ruột; hạn chế tác động của các vi khuẩn gây hại. Chế phẩm bổ sung axit chủ yếu được chia làm 3 loại: chế phẩm bổ sung axit hữu cơ, chế phẩm bổ sung axit vô cơ và chế phẩm bổ sung axit tổng hợp.
Bảng 1.1:Phân loại chế phẩm bổ sung axit và phân loại
h) Oligosaccharide:
Chất này có nhiều đặc tính lý hóa vượt trội như: ít năng lượng, ổn định, an toàn, không độc…Ngoài ra do đặc điểm cấu tạo, Oligosaccharide khi vào trong đường tiêu hóa không chỉ có khả năng khôi phục lại quần thể vi sinh vật có lợi mà còn có khả năng tự bảo vệ kết cấu phân tử khỏi sự tác động của các enzym trong đường tiêu hóa của người và các động vật dạ dày đơn cũng như các vi khuẩn gây bệnh. Sau khi trực tiếp tiến vào đường ruột, các lợi khuẩn như lactobacillus, bifidobacterium…sẽ phân giải Oligosaccharide thành các đường đơn và được cơ thể hấp thu bằng các đường phân. Oligosaccharide có tác dụng thúc đẩy quá trình sản sinh lợi khuẩn và cân bằng hệ vi sinh vật đường ruột, khống chế các vi khuẩn gây bệnh như Ecoli, salmonella…; do đó còn được gọi là chất trợ sinh hóa học. Điểm khác biệt giữa những chất này và chất trợ sinh là Oligosaccharide chủ yếu sử dụng để duy trì sự cân bằng của hệ vi sinh vật sẵn có trong đường ruột; còn chất trợ sinh thường dùng để đưa quần thể vi sinh vật ngoại sinh vào đường ruột, xây dựng và cân bằng lại hệ vi sinh vật mới.
i) Saccharicterpenin:
Là hoạt chất tự nhiên có nguồn gốc từ bã trà dầu và bã hạt cải, có thành phần cấu tạo gồm 30% đường, 30% saponintriterpenid và nhiều axit hữu cơ khác. Saccharicterpenin có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh trưởng, kích thích tăng trọng nâng cao hiệu suất chuyển hóa thức ăn, tăng cường sức đề kháng và miễn dịch; ngoài ra còn đóng vai trò là chất chống oxi hóa, chống căng thằng; góp phần làm giảm hàm lượng các nguyên tố có hại trong sản phẩm chăn nuôi như thiếc, chì, thủy ngân, thạch tín…đồng thời cải thiện màu sắc và nâng cao chất lượng của sản phẩm.
k) Allicin:
Tỏi là một trong những loại gia vị, chất kháng khuẩn và kích thích thèm ăn được sử dụng từ lâu đời. Những phụ gia thức ăn chăn nuôi có nguồn gốc từ tỏi bao gồm bột tỏi và allicin (hoạt chất của tỏi), có tác dụng sát khuẩn, kích thích thèm ăn, thúc đẩy quá trình sinh trưởng, nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và chất lượng sản phẩm chăn nuôi.
l) Chất tẩy giun:
Chủ yếu gồm các loại chất diệt cầu trùng. Hiện nay trên thị trường có rất nhiều chất diệt cầu trùng như furoxone, zoalene, robenidine hydrochloride, clopidol, natri humate…mỗi loại chất tẩy giun có một mức độ kháng thuốc khác nhau, vì vậy nên sử dụng thay phiên nhiều loại để đạt hiệu quả cao hơn.
m) Chất bảo quản:
Thức ăn hỗn hợp muốn để được lâu phải pha trộn thêm chất bảo quản. Hiện nay trên thị trường có nhiều loại chất bảo quản như axit formic, axit axetic, axit propionic, axit butyric, axit lactic, axit benzoic, axit citric, axit sorbic và các muối axit tương ứng. Chất bảo quản thức ăn chủ yếu bao gồm các loại axit hữu cơ; muối axit hữu cơ hoặc giấm và chất bảo quản tổng hợp. Các chất bảo quản thường dùng trong chăn nuôi là canxi propionate và natri propionate.
n) Các loại phụ gia khác:
Ngoài các loại phụ gia kể trên, phụ gia thức ăn chăn nuôi còn bao gồm chất chống oxi hóa; chất điều vị, chất tạo màu và các loại hoocmon,…
2. Thành phần dinh dưỡng trong các loại thức ăn chăn nuôi thường dùng cho gà
Bảng 1.2: Thành phần dinh dưỡng có trong các loại thức ăn thường dùng cho gà
Hiện nay rất nhiều trang trại ngoài việc có công thức phù hợp với vật nuôi và còn để tiết kiệm chi phí thì họ có thể dùng các sản phẩm của địa phương như khô thóc cám gạo … tạo ra các viên cám chất lượng phục vụ chăn nuôi. Các viên cám được tạo ra từ công thức trên cần được gói gọn trong những viên cám để vật nuôi được bổ sung tốt nhất, chính vì thế mà các trang trại nên sử dụng máy ép cám viên để làm việc này.